Lúc mới di cư đến chúng không khỏi phập phồng lo sợ, mỗi
ngày chúng phải cắt phiên nhau canh phòng, nếu có nguy hại thì lo tìm đường tẩu
thoát. Nhưng dần dần dọ dẫm, một ngày, hai ngày, một tháng, hai tháng cho đến cả
năm vẫn không thấy dấu hiệu nguy hiểm nào, nên chúng yên lòng sinh sống một
cách thanh thản, vui vẻ.
Nhưng một việc đáng buồn đã xảy ra trong đàn. Một con nai
tánh kiêu hãnh, hẹp hòi, háo danh muốn lên làm chúa đàn. Song đàn nai đâu lạ
lùng gì tư cách, tài năng và tâm địa của nó, ai mà tôn nó làm chúa đàn?
Chẳng kể phải quấy, được theo hay không theo, con nai này vẫn
tự xưng là nai chúa đầu đàn. Rồi bằng những mánh khoé dỗ dành, mua chuộc, van
lơn, dần dần nó cũng lôi cuốn được một số nai nhẹ dạ đi theo. Thế là đàn nai
thuần nhất khi mới đến bây giờ bị chia ra làm hai. Tuy vậy chúng vẫn sống lẫn lộn
với nhau trong khu rừng đó. Năm này qua năm khác, chúng sống và tiếp tục sinh
sôi nẩy nở, mới đó mà bây giờ mỗi đàn của chúng đều có tới năm trăm con. Chúng
sống ở đây như vậy đã không biết bao nhiêu ngày rồi mà chẳng có điều gì tai biến,
nên tâm hồn chúng trở nên giản dị vô tư. Chúng tưởng mọi loài, mọi vật chung
quanh cũng đều như chúng nên không đề phòng. Không ngờ là trong khi đó, ông vua
Phạm-đạt-đa ở thành Ba-la-nại đã nghe biết về chúng. Ông này rắp tâm chờ một
ngày dò biết chúng tập trung về đó đủ cả, ông sẽ kéo quân đến vây bắt hết để
làm thịt. Một sớm kia, khi ông biết rõ tình hình đàn nai đã quy tụ như ý ông
mong đợi, ông liền kéo quân đến bao vây. Cả đàn nai đều không để ý. Lúc đầu tưởng
người ta đến dạo chơi hay làm việc gì, không ngờ vòng vây mỗi lúc một thắt chặt,
nhìn phía nào cũng thấy toàn gươm giáo, cung tên. Chúng hoảng hốt lên, con này
chạy báo con kia, hoang mang nhốn nháo, sợ hãi, khủng khiếp tràn lan. Bỗng chốc
khu rừng, tổ ấm an lành của chúng trở thành khu rừng lửa, phen này đành phải chết
hết không còn cách gì thoát khỏi. Quả vậy, vua đã ra lệnh vây chặt khu rừng rồi
châm lửa đốt để bắt thịt lớn bé một lần. Trước cảnh nguy biến cấp bách ấy, con
nai chúa đầu đàn vốn thông minh nhân từ được tôn trọng, dõng dạc đứng lên tuyên
bố cho cả hai đàn nai biết, nó sẽ đi thẳng tới vua, trình bày ý kiến xin hoãn sự
chết cho cả đàn và tưởng thế nào cũng được nhà vua chấp thuận. Khi nghe qua lời
tuyên bố, ngoại trừ con nai đầu đàn kiêu hãnh, vì tự ái không biểu lộ vẻ hân
hoan, còn con nào con nấy đều sáng cả mắt lên, lấy lại sự bình tĩnh để chờ đợi.
Nai chúa nhân từ một mình mạo hiểm ra đi.
Khi trông thấy nó, thì bao nhiêu mũi tên, giáo mác ngay lập
tức cùng nhắm đến. Nhưng một người trong đám quân lính nói:
– Ồ! Con nai này đẹp quá, hãy để bắt sống, chớ bắn, chớ giết.
Những người khác hưởng ứng theo, nai chúa khỏi bị bắn, nhưng
nó đã lọt vào tay đám quân lính. Nó xin được đưa đến trước mặt nhà vua. Vừa đến
nơi, nó liền quỳ xuống trình bày:
– Thưa nhà vua, hôm nay nhà vua hạ lệnh vây đốt rừng để bắt
chúng tôi làm thịt, dẫu biết mạng sống đã nằm trên dao thớt, chúng tôi không
trái lệnh, song thiết nghĩ đàn chúng tôi có tới một ngàn con, nếu chúng tôi phải
chết một lần để làm món ngự thiện, thì nhà vua cũng chỉ dùng được đôi ba ngày đầu,
đến ngày thứ tư, thứ năm chắc thịt chúng tôi sẽ bị sình thúi ắt phải đổ đi, sau
đó nhà vua muốn dùng thịt chúng tôi nữa cũng khó lòng. Vậy điều hay nhất, chúng
tôi xin hứa mỗi ngày tự đem thân đến nạp nhà vua một con để nhà vua làm thịt,
như vậy món ngự thiện được tươi tắn, ngon lành mà chúng tôi cũng sống thêm được
ít lúc, khỏi bị chết một cách oan uổng vô dụng.
Nhà vua nghe xong tấm tắc khen chí lý, liền truyền lịnh cho
nai lui về và không quên dặn phải giữ lời hứa, và hạ lịnh giải vây, kéo quân về.
Khi ấy, ông liền yết lịnh cho toàn dân biết không ai được phép xâm phạm khu rừng
bắt nai. Nếu ai thấy nai đi về phố thì phải dẫn đến cung vua, không được phá
phách, ngăn chận hay bắt giết. Còn đàn nai thì lo sắp đặt thứ tự đi nạp mình.
Sáng này một con nai xấu số bị thui trên lửa. Sáng nọ lại một con nai xấu số
khác bị đưa vào cỗ ăn của nhà vua...
Ăn thịt nai vài ba hôm, nhà vua lại hạ lịnh cho hoãn 10, 15
ngày, rồi lại tiếp tục con nai khác đến nạp mạng. Lần này đến phiên một con nai
đang chửa, nó đến trước nai đầu đàn kiêu hãnh của nó van xin cho nó đi phiên
sau, bây giờ chọn con nai khác đi thay, viện lẽ nó sắp sinh. Đến phiên nạp mạng,
nó không có ý tránh né, đưa đẩy, nhưng nghĩ đến đứa con trong bụng sắp sinh,
chưa đến phiên mà phải bị chết thì rất tội, chi bằng cho nó sinh xong, nó sẽ đi
nạp mạng. Nhưng con nai đầu đàn kiêu hãnh khăng khăng không chịu, nộ nạt mắng
nhiếc: “Nếu mày không đi, ở đây có ai dại gì đi chết thay cho mày?” Con nai chửa
ríu ríu ra về tìm đến nai chúa nhân từ ở đàn nai kia cầu khẩn. Vừa nghe qua,
nai chúa nhân từ chấp nhận liền. Nó suy nghĩ chọn con nào đi thay thế bây giờ dễ
gì đã có, thôi ta hãy đi nạp mạng, nếu không thì tất cả đều sẽ chết. Nghĩ rồi
nó liền bình tĩnh ra đi. Khi vừa đến phố thì mọi người xúm lại chỉ trỏ, trầm trồ:
“Con nai đẹp quá!” Có người muốn chận lại, nhưng nhớ lệnh nhà vua nên tức tốc
đưa nó đến cung đình.
Vừa thấy nó nhà vua ngạc nhiên hỏi: “Nay tới phiên ngươi
sao?” Nai chúa nhân từ đáp: “Không phải.” Và trình bày đầy đủ lý do mà nó đi nạp
mạng sớm như vậy. Nhà vua nghe xong liền đổi ra dáng đăm chiêu nghĩ ngợi:
“Không ngờ trong loài thú mà có con nai đầu đàn này vừa thông minh, vừa nhân từ
đại độ, vừa can đảm thành tín như vậy. Nó là chúa đầu đàn mà biết thương yêu
đùm bọc, biết can đảm hy sinh cho sự sinh tồn của cả đàn như vậy. Còn ta, ta là
người, là chúa đầu đàn của một đám thần dân rộng lớn, ta có bằng nó không? Liệu
khi thần dân ta bị bao vây sát hại, ta có đủ trí lực thông minh, nhân từ, can đảm
để đối phó với sự nguy hiểm như nó không? Có lẽ ta sẽ không bằng! Không bằng! Nếu
bây giờ ta chỉ nghĩ đến một chút khoái khẩu trong giây lát mà giết nó, thì khác
nào ta tự chôn vùi lương tâm sâu thêm một từng nữa. Ta giết nó tức là ta giết một
đạo lý sống cao thượng, giết một tình thương rộng lớn, một lòng quả cảm hy
sinh, tức là giết hết những gì cao quí nhất của cuộc đời. Ôi! Nếu cuộc đời
không từ bi, thiếu trí tuệ, không dũng cảm, chỉ là cuộc đời trống rỗng tối tăm,
ta còn mặt mũi nào để xưng mình là một ông vua trong loài người ở trên chúng
nó.”
Con nai chúa nhân từ vẫn đang quỳ yên đợi lịnh, nhà vua sau
một hồi chìm đắm trong ý nghĩ miên man, vụt ngồi thẳng mình, lộ vẻ hân hoan như
vừa tìm ra chân lý. Ông dùng hết lời ca ngợi nai chúa, hạ lịnh đưa nó trả về rừng
và truyền cho toàn dân từ nay không ai được phép xâm phạm đến khu rừng, cũng
như không ai được phép phá nai, bắt nai, giết nai làm thịt. Từ nay đàn nai trở
lại đời sống yên lành như trước dưới sự thương yêu chăm sóc của nai chúa sáng
suốt nhân từ và cũng từ đây khu rừng này mang tên là Rừng Nai hay Vườn Nai.
Lúc đức Phật ra đời, Vườn Nai này lại một lần đặc biệt nổi
tiếng, trở thành một trong bốn nơi trọng tâm của Phật giáo. Vì sau khi đức Phật
thành đạo, Ngài liền tìm đến năm đạo sĩ nhóm Kiều Trần Như đang tu tại Vườn Nai
để chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên.