Nào là quốc hoa là hoa gì để nhìn cái biết liền nước Việt là ra sao, tươi tắn hay thâm thúy, giản dị hay rực rỡ, hiền lành hay dũng mãnh, dịu dàng hay kiêu hãnh. Nào là giỗ Tổ Hùng Vương linh thiêng, có một không hai trên thế giới, vậy gọi quốc giỗ được không. Chuyện quốc hoa thì mới dấy lên vài ba năm nay, hình như thế, còn như chuyện quốc phục, lễ phục đã có thâm niên hai chục năm có lẻ, thỉnh thoảng lại họp một cuộc bàn, như gần đây lại họp, mà nghe chừng còn là bàn chán nữa. Tự nhiên giữa xôn xao những cái sự quốc hữu hình đang bàn thảo để định hình đó, tôi nhớ tới một cái quốc vô hình nhưng là cốt yếu. Đó là quốc hồn mà tiếng Việt thân thương gọi là hồn nước.
Trong tiếng Việt, đất nước là tên gọi để chỉ quốc gia, còn nước để gọi dân tộc, giống nòi. Nước trong tâm thức người Việt không chỉ là một cương vực lãnh thổ chính thể, mà nước giống như một con người, có phần xác và phần hồn, có vẻ bên ngoài và cái bên trong. Làm nổi bật, khác biệt cái vẻ bên ngoài bằng một loại quần áo đặc trưng (quốc phục), một loài hoa đặc trưng (quốc hoa), một nghi thức đặc trưng (quốc lễ), một hình thức biểu hiện văn chương đặc trưng (quốc thi)... cũng là điều có thể và nên làm. Nhưng giống như một cơ thể sống, cái hồn mới làm nên thần thái của cái xác, nước khỏe là khi quốc hồn khỏe, nước yếu là khi quốc hồn yếu, và một khi dân nước không biết chăm lo, bảo vệ, nuôi dưỡng cho hồn nước thì sự an nguy của xã tắc là điều phải báo động. Thức tỉnh hồn nước để cố kết lòng dân trước mọi thử thách sống còn của dân tộc - đó là một phương cách được cha ông ta coi là hữu hiệu. Chuyện này nghe có vẻ siêu hình, tâm linh, nhưng đối với người VN là chuyện thiêng liêng rất thực, rất cụ thể. Ngôn ngữ cách mạng hiện đại sẽ nói đó là việc làm thức tỉnh ý thức tự giác, khơi dậy lòng yêu nước của người dân. Các cụ xưa coi đó là một cách gọi hồn về, hay là chiêu hồn. Nước có hồn nên phải chiêu hồn nước về làm sống dậy sức mạnh quật khởi của giống nòi, dân tộc.
Gần 90 năm về trước, giữa khi nước mất nhà tan dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, có một người thanh niên 18 tuổi đã can đảm và nồng nàn cất lên tiếng khóc, tiếng gọi quốc hồn VN trở về cho đồng bào sức mạnh đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Đó là Phạm Tất Đắc (1909-1935) với bài Chiêu hồn nước thống thiết lay động tâm can, sôi bầu máu nóng. Gọi hồn nước là để “hồn về dạy dỗ con rồng cháu tiên”. Hồn hãy về để “anh em Hồng Lạc, cõi bờ VN” được nhờ cậy. Nhưng hồn về “chớ vì rượu thịt/ chớ tham nhà cao tít nhiều từng”, cũng “chớ mong giàu có/ mà ước ao xe nọ ngựa kia”, và “đừng say sắc đẹp”.
Hồn trở về non sông nước cũ,
Mà mau mau giết lũ tham tàn,
Mau mau giết lũ hại đàn,
Túi tham cướp hết bạc vàng của dân.
Bài Chiêu hồn nước dài hơn trăm câu thơ đã được in ra và chính quyền thực dân Pháp đã bắt Phạm Tất Đắc bỏ tù ba năm. Năm năm sau khi ra tù ông mất ở tuổi 26. Nhưng tấm lòng của người thanh niên nhiệt huyết đối với dân với nước thì mãi còn thổn thức lay động mọi người VN: “Tôi nay chỉ một lòng yêu/ nên mong nên mỏi nên chiêu hồn về.../ để rồi thúc kẻ xa gần/ rằng mau nên trả nợ nần non sông”. Tôi nhớ về sự kiện này vì cũng nhớ một người thanh niên họ Nguyễn mang cho mình tên gọi Ái Quốc đã từng lo lắng cho vận mệnh của xứ Đông Dương sẽ lâm nguy nếu tầng lớp thanh niên ở đó không thức tỉnh sớm. Có những người như Phạm Tất Đắc, như Phạm Hồng Thái (“hồn nước gọi tiếng bom Sa Điện” - Tố Hữu) thì quốc hồn nước Việt mãi sống còn.
Nhưng ai biết lắng nghe hồn nước đây? “Xưa nay những kẻ tỉnh say/ Lòng mê có nghĩ việc hay bao giờ” (Phạm Tất Đắc).